Hãy đơn giản hóa cuộc sống để loại trừ tám ngọn gió thế gian
Đức Phật nói cho chúng ta biết rằng có tám pháp hay “tám ngọn gió thế gian” làm khuấy động lòng người, lay chuyển thế giới, khiến cho con người quay cuồng chao đảo, rơi vào vòng xoáy của tư duy nhị nguyên đi đôi với các phản ứng tâm lý – thuận ứng và nghịch ứng – liên tục nảy sinh không dứt. Đó là các ngọn gió lợi dưỡng và không lợi dưỡng, danh vọng và không danh vọng, chỉ trích và tán than, vui sướng và đau khổ.
Đức Phật cũng nói cho chúng ta biết mọi thứ trên thế gian này đều thay đổi, vô thường, cần phải khéo nhận diện, khéo suy tư tác ý thường xuyên để thoát khỏi cái họa khổ đau vì tâm tham ái dính mắc. Ngài dạy rằng hết thảy những gì mà con người nhận được trong cuộc đời, dù tốt hay xấu, thích ý hay không thích ý đều thay đổi biến hoại không đáng cho ta lưu luyến nắm giữ ở trong tâm. Bởi vì, nếu cứ tham luyến ôm ấp mọi thứ thì con người sẽ chịu đau khổ triền miên do tâm cứ thuận ứng ( thích thú luyến ái đối với cái tốt, cái có lợi) và nghịch ứng ( chán ghét bực phiền đối với cái không tốt, cái không có lợi). Thuận ứng và nghịch ứng tức là biểu hiện của tâm dao động mê mờ, không tỉnh táo sáng suốt, bị ám ảnh và kích động bởi các ý tưởng phù phiếm của cuộc đời. Chúng là nguyên nhân của những việc làm không sáng suốt, thiếu cân nhắc gắn liền với các hậu quả đầy phiền toái khổ đau.
Sự đời có hay không, được hay mất, tốt hay xấu chỉ là hiện tượng tương đối, diễn ra hoàn toàn không như mình muốn, vì thế mà con người nên học cách “biết đủ” (đối với cái có được và cái không có được) để cho tâm hồn được thảnh thơi và cần nhận ra cái bản chất giới hạn, vô thường bất toại của hiện hữu để bớt phản ứng quay cuồng. Còn phản ứng quay cuồng – thuận ứng và nghịch ứng – tức là còn nô lệ cho dục vọng khổ đau. Đức Phật gọi thái độ thuận ứng và nghịch ứng đối với thực tại sinh diệt biến đổi vô thường của dòng đời là vô minh, thất niệm, biểu hiện của cái tâm nhỏ mọn. Thuận ứng đối với cái tốt, cái có lợi thì tham có cơ hội dấy khởi, đi đến tăng trưởng. Trái lại, nghịch ứng đối với cái không tốt, không có lợi thì sân có lý do sinh khởi, đi đến tăng trưởng. Tham và sân là con đẻ của si hay vô minh, tức sự mê mờ, không thấy rõ bản chất vô thường bất toại của hiện hữu nên tâm phản ứng quay cuồng – thuận ứng và nghịch ứng – trước mọi sự kiện sinh diệt vô thường của cuộc đời. Như vậy, do si hay vô minh nên tâm cứ thuận ứng đối với cái tốt , cái có lợi khiến tham dấy khởi đi đến sự tăng trưởng. Tương tự, do si hay vô minh nên tâm cứ nghịch ứng đối với cái không tốt, không có lợi khiến sân dấy khởi đi đến tăng trưởng. Tham, sân, si là ba độc tố tàn hại sức khỏe và tâm trí của con người, khiến cho con người trở thành mù lòa, rơi vào điên đảo quay cuồng trong vòng xoáy của dục vọng hão huyền, gây tạo nên mọi ác nghiệp dẫn đến hậu quả khổ đau khổ - khổ cho mình, khổ cho người, khổ cho cuộc đời. Do đó tham, sân, si mà dấy khởi và lớn mạnh trong con người thì cuộc đời rơi vào chao đảo bất an. Trái lại, vô tham, vô sân, vô si được nuôi dưỡng và phát triển thì đời sống trở nên hài hòa an lạc.
Để giúp cho mọi người nhận diện hậu quả phiền toái khổ đau do tâm cứ thuận ứng đối với muôn sự việc muôn việc ở đời, Phật nêu hình ảnh một kẻ vô văn phàm phu chưa có nhân duyên học hiểu Phật pháp nên bị tám ngọn gió thế gian quấy rối phải chịu khổ đau liên tục và một vị đa văn Thánh đệ tử nhờ hiểu rõ và thực hành lời Phật dạy nên không còn bị tám ngọn gió thế gian làm cho điên đảo. Nói khác đi, Phật khuyên nhắc chúng ta rằng sự đời thực hư biến đổi khôn lường như gió thoảng mây bay nên mỗi người hãy thiền tập giữ tâm bình thản hay tập buông xả đối với mọi thứ, thích ý cũng như không thích ý, để thoát khỏi cái tâm phản ứng vùng vẫy mệt mỏi mà sống thanh thản an lạc trên cuộc đời vì sớm muộn tất cả đều ra đi. Sau đây là toàn văn lời dạy của Đức Phật:
“ Tám thế gian pháp này, này các Tỷ Kheo, tùy chuyển thế giới. Thế giới tùy chuyển theo tám pháp thế gian này. Thế nào là tám?
Lợi dưỡng và không lợi dưỡng, danh vọng và không danh vọng, tán thán và chỉ trích, an lạc và đau khổ.
Với kẻ phàm phu không nghe pháp, này các Tỷ-kheo, sanh ra lợi dưỡng, không lợi dưỡng, danh vọng, không danh vọng, tán thán, chỉ trích, an lạc, đau khổ. Với vị Thánh đệ tử nghe pháp, cũng sanh ra lợi dưỡng, không lợi dưỡng, danh vọng, không danh vọng, tán thán, chỉ trích, an lạc, đau khổ.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có đặc thù gì, thù thắng gì, có sai khác gì giữa vị Thánh có nghe pháp và kẻ phàm phu không có nghe pháp?
- Bạch Thế Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn làm chỉ đạo, lấy Thế Tôn làm chỗ nương tựa. Lành thay, bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn giảng cho ý nghĩa của lời nói này. Sau khi nghe Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì.
- Vậy này các Tỷ-kheo, hãy lắng nghe và suy niệm kỹ, Ta sẽ nói.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
- Với kẻ phàm phu không nghe pháp, này các Tỷ-kheo, khởi lên lợi dưỡng. Vị ấy không có suy tư: "Lợi dưỡng này khởi lên nơi ta, lợi dưỡng ấy vô thường, khổ, biến hoại". Vị ấy không như thật rõ biết ... khởi lên không lợi dưỡng ... khởi lên danh vọng ... khởi lên không danh vọng ... khởi lên tán thán ... khởi lên chỉ trích ... khởi lên an lạc ... khởi lên khổ đau. Vị ấy không có suy tư: "Khổ này khởi lên nơi ta, khổ ấy là vô thường khổ, biến hoại". Vị ấy không như thật rõ biết, rằng lợi dưỡng xâm nhập tâm của người ấy và an trú, không lợi dưỡng xâm nhập tâm của người ấy và an trú, danh vọng xâm nhập tâm của người ấy và an trú, không danh vọng xâm nhập tâm của người ấy và an trú, tán thán xâm nhập tâm của người ấy và an trú, chỉ trích xâm nhập tâm của người ấy và an trú, an lạc xâm nhập tâm của người ấy và an trú, đau khổ xâm nhập tâm của người ấy và an trú". Người ấy thuận ứng với lợi dưỡng được khởi lên và nghịch ứng với không lợi dưỡng; thuận ứng với danh vọng được khởi lên và nghịch ứng với không danh vọng; thuận ứng với tán thán được khởi lên và nghịch ứng với chỉ trích; thuận ứng với an lạc được khởi lên và nghịch ứng với đau khổ; Người ấy đầy đủ thuận ứng, nghịch ứng như vậy, không có giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói rằng, người ấy không thoát khỏi khổ.
Với vị Thánh đệ tử có nghe pháp, này các Tỷ-kheo, khởi lên lợi dưỡng. Vị ấy có suy tư: "Lợi dưỡng này khởi lên nơi ta, lợi dưỡng ấy vô thường, đau khổ, biến hoại". Vị ấy như thật rõ biết ... khởi lên không lợi dưỡng ... khởi lên danh vọng ... khởi lên không danh vọng ... khởi lên tán thán ... khởi lên chỉ trích ... khởi lên an lạc ... khởi lên khổ đau. Vị ấy có suy tư: "Ðau khổ này khởi lên nơi ta, đau khổ ấy là vô thường, khổ đau, biến hoại". Vị ấy như thật rõ biết, rằng lợi dưỡng này không xâm nhập tâm của vị ấy và an trú, không lợi dưỡng ...., danh vọng....., không danh vọng .... tán thán... chỉ trích... an lạc... đau khổ không xâm nhập tâm của vị ấy và an trú. Vị ấy không thuận ứng với lợi dưỡng được khởi lên, không nghịch ứng với không lợi dưỡng; không thuận ứng với danh vọng được khởi lên, không nghịch ứng với không danh vọng; không thuận ứng với tán thán được khởi lên, không nghịch ứng với chỉ trích; không thuận ứng với an lạc được khởi lên, không nghịch ứng với đau khổ; Vị ấy do đoạn tận thuận ứng, nghịch ứng như vậy, nên giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói rằng, vị ấy thoát khỏi khổ.
Ðây là đặc thù, này các Tỷ-kheo, đây là thù thắng, đây là sai biệt giữa vị Thánh đệ tử có nghe pháp và kẻ phàm phu không nghe pháp.
Lợi dưỡng, không lợi dưỡng,
Danh vọng, không danh vọng
Tán thán và chỉ trích
An lạc và đau khổ
Những pháp này vô thường
Không thường hằng biến diệt
Biết chúng giữ chánh niệm
Bậc trí quán biến diệt
Pháp khả ái, không động
Không khả ái, không sân
Các pháp thuận hay nghịch
Ðược tiêu tan không còn
Sau khi biết con đường
Không trần cấu, không sầu
Chơn chánh biết sanh hữu
Ði đến bờ bên kia."
Phổ Đức Hùng
Trích từ “ Pháp Đăng”