Sắc màu Phật giáo trong nhạc Trịnh
Ông sinh ra ở Đăk Lăk, nhưng lớn lên ở thành phố Huế trong không khí tĩnh lặng của ngôi chùa Hiếu Quang, nơi gia đình gửi ông vào vì đời sống quá khó khăn và dường như nhìn thấy nơi bản thể ông căn nghiệp tu hành. Những năm tháng sống ở chùa đã lưu dấu trong âm nhạc Trịnh Công Sơn một cái nhìn hư vô đối với đời sống. Sinh thời, Trịnh Công Sơn tâm sự: “Tôi là một Phật tử ở trong một gia đình có tôn giáo chính là Phật giáo. Từ những ngày còn trẻ, tôi đã đọc kinh và thuộc kinh Phật. Thuở bé tôi hay đến chùa vì thích sự yên tĩnh. Có nhiều năm tháng nằm bệnh, đêm nào mẹ tôi cũng nhờ một thầy đến nhà tụng kinh cầu an và tôi thường đi vào giấc ngủ êm đềm giữa những câu kinh đó. Có lẽ vì một tuổi trẻ đã có cơ duyên đi qua những cổng nhà Phật nên trong vô thức bên cạnh những di sản văn hóa Đông – Tây góp nhặt được còn có lời kinh kệ nằm ở đấy”.
Với Trịnh Công Sơn, đạo Phật là hơi thở, là triết học làm cho con người yêu đời hơn chứ không thờ ơ hay lãng quên cuộc sống: “Tôi vốn thích triết học và vì thế tôi muốn đưa triết học vào những ca khúc của mình, một thứ triết học nhẹ nhàng mà ai ai cũng có thể hiểu được như ca dao hoặc lời ru con của mẹ. Tôi cố gắng làm thế nào để có thể trong bài hát của mình chuyên chở được một thông điệp của lòng nhân ái đến với mọi người”. Ông còn nói: “Tôi đang cố gắng quên Phật giáo như một tôn giáo. Mỗi người phải tự nỗ lực để xây dựng cho bằng được một ngôi chùa tĩnh lặng trong lòng mình và nuôi lớn Phật tính trong chính bản thân thành một tượng đài vững chắc. Nó sẽ giúp ta nhìn thế giới khác đi, nhìn cuộc đời khác đi”.
Tự dầm mình trong khí hậu của cô đơn, trong cái màu sắc Khổ đế của Phật giáo và dùng lăng kính ngày xưa để yêu và sống, chỉ có điều Trịnh Công Sơn nói bằng nhạc và thơ: “Nghe xót xa hằn lên tuổi trời/ Trẻ thơ ơi/ Trẻ thơ ơi/ Tin buồn từ ngày mẹ cho/ Mang nặng kiếp người” (Gọi tên bốn mùa). Do đó thế giới nhạc ngữ Trịnh Công Sơn rất lạ: Thực quyện Ảo, Không quyện Có, Khoảnh Khắc hòa lẫn với Thiên Thu… Nhưng ngày nào đời sống còn hiến tặng những “cây trái trần gian” thì ngày đó Trịnh Công Sơn còn tha thiết với đời. Dẫu đó chỉ là những sắc màu của kỷ niệm, của sự chia lìa, khổ đau, mất mát: “Dù đến rồi đi/ Tôi cũng xin tạ ơn người/ Tạ ơn đời/ Tạ ơn ai/ Đã cho tôi tình sáng ngời/ Như sao xuống từ trời” (Tạ ơn). Cả cuộc đời ông là sự phấn đấu không ngừng nghỉ của một Phật tử. Trong Để Gió Cuốn Đi, ông đã hát: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng/ Để làm gì em biết không/ Để gió cuốn đi/ Để gió cuốn đi” và trong bài Ru em: “Yêu em yêu thêm tình phụ/ Yêu em lòng chợt từ bi bất ngờ”. Đây là thái độ “phá chấp” của một con người thấm nhuần tư tưởng Phật giáo.
Nhưng dù có “ngông nghênh” tới đâu, Trịnh Công Sơn cũng về với cái trầm buồn, u hoài, xa vắng. Nói cho cùng, Trịnh Công Sơn vẫn là thi sĩ của nỗi buồn. Ông lớn lên qua cuộc chiến tranh dai dẳng. Ông lang thang, ngơ ngác giữa cuộc sống bức bối, ngột ngạt: “Đại bác đêm đêm dội về thành phố/ Người phu quét đường/ Dừng chổi đứng nghe/ Đại bác đêm đêm ru da thịt vàng/ Đại bác nghe quen như câu dạo buồn/ Trẻ con chưa lớn để thấy quê hương/ Trẻ con chưa lớn để thấy quê hương” (Đại bác ru đêm). Dưới một bầu trời như vậy, thân phận con người là một vấn nạn lớn. Để vượt thắng nỗi đau ấy, con người tìm kiếm mọi nẻo đường để “hòa giải” với thiên nhiên, với người khác, với chính mình, và tình yêu chính là “miền đất hứa” giữa chốn nhân gian này.
Có lần Trịnh Công Sơn tâm sự: “Cái may ở đời là được yêu và đôi khi cái may ở đời cũng là bị tình phụ. Còn yêu thì còn sống. Còn được yêu thì còn sống dài lâu”. Ông cũng từng lớn tiếng cổ vũ: “Hãy yêu nhau cho gạch ngói có tin vui” (Hãy yêu nhau đi). Nhưng tình khúc của Trịnh Công Sơn lại phảng phất những nét buồn, lẩn khuất trong đó là những hờn ghen, giận tủi vô thường của con người trong kiếp trầm luân. Ông quen với những cuộc chia ly hơn là những phút gặp gỡ. Gặp gỡ trong giây lát rồi xa cách nghìn trùng. Tất cả đối với ông chỉ là những ký ức dĩ vãng, những chuyện tình huyền thoại xen lẫn những mảng đời thường của hôm qua nhiều hơn là hôm nay.
Trịnh Công Sơn đã thênh thang “một cõi đi về”. Cái ông để lại không là hơi ấm tâm linh, niềm an ủi dặn dò của một Phật tử dành cho bao người đã đến và sẽ đến trần gian này làm người. Nó là những lời thì thầm dấu yêu, những khúc thơ đau thương về thân phận kiếp người, cái đẹp muôn đời mà con người có đầy đủ tư cách cất mình vươn tới.